VNUHCM Journal of Social Sciences and Humanities

A sub-journal of VNUHCM Journal of Science and Technology Development since 2017

Skip to main content Skip to main navigation menu Skip to site footer

 Research Article - Social Sciences

HTML

630

Total

481

Share

Compare noun phrases in Stieng language and Vietnamese






 Open Access

Downloads

Download data is not yet available.

Abstract

This article presents about structural features of the noun phrase in Stieng language in order to define the similarities and differences points between the noun phrase in Stieng language and noun phrase in Vietnamese. Noun phrase has a central component, previous sub-components, and the following sub-components. Also, it has played a role in creating a sentence. Base on situations in communication, the noun phrase may be previous vacant sub-components or following sub-components, but it can not be removed from the central component. The central component is mass nouns like as simple nouns, overall nouns, or abstract nouns. The previous sub-component includes quality words, numerals, or unit nouns. The following sub-component can be a noun, verb, pronoun, phrase, and followed by a demonstrative word. Stieng is a language of South Bahnaric subgroup, an Austroasiatic family, so there are many similarities with other languages such as Koho, Mnong, Ma, and Chrau. They belong to the Austroasiatic family, so they are closed contact with the Vietnamese.

Đặt vấn đề

Stiêng là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam có địa bàn cư trú chính ở tỉnh Bình Phước. Về mặt phổ hệ, tiếng Stiêng là một ngôn ngữ được xếp vào tiểu nhóm Bahnar Nam (South – Bahnaric languages), nhóm Bahnar (Bahnaric), nhánh Môn – Khmer (Mon-Khmer branche), họ ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic) nên có nhiều nét tương đồng với các ngôn ngữ cùng nhóm như Kơho, Mnông, Mạ và Chrau [ 1 , tr.174]. Về mặt ngôn ngữ, tiếng Stiêng có hai phương ngữ chính là: Stiêng Bu Lơ được nói ở các huyện vùng cao như Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Gia Mập, Phước Long, Hớn Quản còn Stiêng Bu Deh được nói ở các huyện/thị trung du và đồng bằng như Đồng Phú, Đồng Xoài, Bình Long 2 .

Cụm danh từ là cụm từ trong đó có danh từ làm trung tâm, danh từ trung tâm quyết định đến việc cấu tạo của cả cụm danh từ, nó đòi hỏi phải có từ chỉ loại (cái, con, chiếc…) đi kèm trước danh từ trung tâm để bổ sung ý nghĩa về mặt từ vựng của nó. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong phần phụ trước và phần phụ sau của cụm danh từ có sự ràng buộc chặt chẽ với nhau và thường chịu sự chi phối của danh từ trung tâm. Các yếu tố xung quanh danh từ trung tâm bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho nó. Các yếu tố trong phần phụ trước bổ sung ý nghĩa về mặt số lượng của sự vật hoặc mang ý nghĩa tổng lượng [ 3 , tr.53]. Còn các yếu tố trong phần phụ sau miêu tả đặc điểm của sự vật được nêu ở danh từ trung tâm và kết thúc cụm danh từ bằng các từ chỉ định (này, đó, kia…).

Trong bài viết này, chúng tôi thông qua ngữ liệu khảo sát và thu thập được từ thực địa về tiếng Stiêng Bu Lơ được sử dụng ở các huyện vùng cao như Bù Đăng, Bù Đốp, Phước Long tại tỉnh Bình Phước.

Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện các nhiệm vụ cũng như những nội dung nghiên cứu cho bài viết này. Trước hết là sử dụng phương pháp miêu tả ngôn ngữ học để phân tích và miêu tả cụm danh từ tiếng Stiêng trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa sau khi đã thu thập ngữ liệu cụm danh từ tiếng Stiêng thông qua phương pháp ngôn ngữ học điền dã . Sau đó, sẽ sử dụng thao tác nghiên cứu của phương pháp so sánh - đối chiếu . Thủ pháp nghiên cứu này được dùng để liên hệ các cụm danh từ trong tiếng Stiêng với các cụm danh từ trong tiếng Việt, từ đó tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng.

Kết quả nghiên cứu

Từ những kết quả nghiên cứu ban đầu, việc miêu tả cụm danh từ trong tiếng Stiêng của bài viết này có thể cung cấp thêm một phần tư liệu tiếng Stiêng trong việc góp phần nhận diện hệ thống ngữ pháp của tiếng Stiêng, một ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Việt Nam, ngoài ra cũng góp một phần trong việc xây dựng hệ thống chữ viết Stiêng, xây dựng chương trình giáo dục song ngữ cho tộc người Stiêng, đặc biệt là dạy tiếng Stiêng cho học sinh người Stiêng.

Cơ sở dẫn luận

Khái niệm về cụm danh từ trong tiếng Việt

Các nhà Việt ngữ học đã đưa ra các khái niệm về cụm danh từ trong tiếng Việt như sau: Diệp Quang Ban cho rằng “Cụm danh từ là tổ hợp từ tự do không có kết từ đứng đầu, có quan hệ chính phụ giữa thành tố chính với thành tố phụ và thành tố chính là danh từ” [ 3 , tr.24].

Theo Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam thì “Danh ngữ là một ngữ mà danh từ làm chính tố.” [ 4 , tr.100].

Đỗ Thị Kim Liên quan niệm rằng “Cụm danh từ (hay còn gọi là danh ngữ) là cụm từ trong đó có danh từ làm thành tố trung tâm và có một hoặc nhiều thành tố phụ quây quần xung quanh để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho từ danh từ trung tâm đó.” [ 5 , tr.81].

Còn Lê Đình Tư thì định nghĩa “Cụm danh từ là loại cụm từ, trong đó thành tố trung tâm là danh từ còn các thành tố phụ là những từ có chức năng bổ sung ý nghĩa cho danh từ trung tâm đó.” 6 .

Các quan niệm trên đều có những điểm chung sau: Chỉ có phần trung tâm (chính tố) là danh từ. Danh từ trung tâm quyết định sự cấu tạo của các thành phần phụ đứng trước và sau.

Đặc điểm cấu tạo của cụm danh từ trong tiếng Việt

Cụm danh từ (còn gọi là danh ngữ hay ngữ danh từ) là một cụm từ/ngữ, trong đó phần trung tâm do danh từ đảm nhiệm. Về cấu tạo, cấu trúc của cụm danh từ tiếng Việt gồm ba phần: phần phụ trước – phần trung tâm – phần phụ sau.

Phần phụ trước là những từ chỉ tổng lượng ( tất cả, hết thảy, tất thảy, toàn bộ, cả, …); từ chỉ số lượng gồm: số từ xác định/số đếm ( một, hai, ba, mười… ), số từ phỏng định ( vài, ba, dăm, dăm ba, mươi, vài ba chục, dăm trăm… ), từ hàm ý phân phối ( mỗi, từng, … ), từ chỉ số nhiều ( những, các, mọi… ); từ chỉ xuất cái thường đứng ngay trước danh từ chỉ vật cần chỉ xuất và sau danh từ thường kèm theo từ chỉ định ( này, kia, ấy ); từ chỉ loại ( cái, con, chiếc, quả, cuốn, bức, anh, ông, bà, chú …) [ 3 , tr.45].

Phần trung tâm là những danh từ đơn thể ( gà, bò, áo, chuối, dừa, điều, giấy, tiền, gạo, rượu, sách, muối, thịt, thuốc, hoa, xe…) ; danh từ tổng thể ( nhân dân, con cái, nhà cửa, quần áo, sách vở, bàn ghế, ruộng vườn, trâu bò, thuốc men… ) hay danh từ trừu tượng ( vấn đề, ý kiến, thái độ, suy nghĩ… ).

Phần phụ sau danh từ trung tâm có thể là danh từ (cái áo vải đó), động từ (cái bàn viết này), tính từ (cậu học sinh mới đó), đại từ (nhà tôi ), số từ (ở chương ba ), một cụm từ (một người cao hai mét ), một kết cấu chủ - vị (chiếc áo dài bằng lụa trắng ; chim cò già làng săn bắn ); từ chỉ định ( này, kia, ấy, đấy, đó ).

Tóm lại, cụm danh từ tiếng Việt gồm có ba thành phần: phần phụ trước – phần trung tâm – phần phụ sau. Tùy theo hoàn cảnh sử dụng trong giao tiếp, cụm danh từ không nhất thiết phải có đầy đủ cả ba thành phần trên. Bài nghiên cứu So sánh cụm danh từ trong tiếng Stiêng và tiếng Việt , trước tiên chúng tôi trình bày đặc điểm cấu tạo của cụm danh từ trong tiếng Stiêng thông qua ngữ liệu khảo sát và thu thập được từ thực địa, sau đó tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong sự liên hệ với cụm danh từ trong tiếng Việt.

Cụm danh từ trong tiếng Stiêng (có so sánh với cụm danh từ tiếng Việt)

Cụm danh từ tiếng Stiêng cũng có mô hình cấu tạo giống như cụm danh từ tiếng Việt gồm: phần phụ trước, phần trung tâm và phần phụ sau. Có thể mô tả chi tiết cấu tạo cụm danh từ tiếng Stiêng qua Table 1 .

Table 1 Bảng mô hình cấu tạo cụm danh từ trong tiếng Stiêng
Phần phụ trước Phần trung tâm Phần phụ sau
Từ chỉtổng lượng Từ chỉsố lượng Từ chỉloại Danh từ Định ngữ Từ chỉ định
lěqtất cả prăm âcnăm mlâmcái aoáo braivải nêynày
lěqtất cả baar âchai bluđùi sôrlợn brirừng tôwđó
lěqcả puôn âcbốn gôômtô bêhrượu bagạo tikia

Cụm danh từ tiếng Stiêng cũng có chức năng làm thành phần kiến tạo nên câu với vai trò làm chủ ngữ hoặc vị ngữ trong câu, ví dụ:

Một cụm danh từ Stiêng có thể khuyết thành phần phụ trước hoặc thành phần phụ sau nhưng không thể khuyết thành phần trung tâm (danh từ trung tâm). Cụm danh từ tiếng Stiêng chứa các ngữ đoạn nhỏ hơn và có thể tham gia làm thành phần cấu tạo nên câu tiếng Stiêng, ví dụ:

a. D-ur nêy blôw blôc mban ndiêng . ( Cô gái đó đeo bông tai mặc xà-rông).

[D-ur (Cô gái) nêy (đó) blôw (đeo) blôc (bông tai) mban (mặc) ndiêng (xà-rông).]

b. Tơơm jhư bơl đat. ( Cây gỗ cứng lắm.)

[Tơơm (Cây) jhư (gỗ) bơl (cứng) đat (lắm)]

c. Ruôs tơtêh nêy têêl poh bôông jơng . (Voi khổng lồ đó dài bảy bước chân .)

[Ruôs (Voi) tơtêh (khổng lồ) nêy (đó) têêl (dài) poh (bảy) bôông (bước) jơng (chân).]

d. Bu keh pi teet . (Họ buộc/cột con vẹt .)

[Bu (Họ) keh (buột/cột) pi (con) teet (vẹt).]

e. Khaac hôôm pi iêr nêy . (Tội nghiệp rồi con gà đó .)

[Khaac (Tội nghiệp) hôôm (rồi) pi (con) iêr (gà) nêy (đó)] [ 7 , tr.12-19-17-117]

Trong các câu ví dụ trên, các cụm danh từ “ d-ur nêy ” (cô gái đó), “ tơơm jhư ” (cây gỗ) giữ vai trò làm chủ ngữ trong câu, còn “ poh bôông jơng ” (bảy bước chân), “ pi teet ” (con vẹt) và “ pi iêr nêy ” (con gà đó) làm thành phần vị ngữ của câu tiếng Stiêng.

Phần trung tâm của cụm danh từ

  • Phần trung tâm (hay danh từ trung tâm) là những danh từ chỉ sự vật đơn thể, chúng không thể kết hợp trực tiếp với từ chỉ số lượng (số từ), thường có từ chỉ loại đứng trước danh từ. Những danh từ đơn thể gồm “ iêr ” (gà), “ gâu ” (bò), “ ao ” (áo), “ prĭt ” (chuối), “ đung ” (dừa), “ đao ” (điều), “ kơđas ” (giấy), “ prăc ” (tiền), “ sưm bưt ” (sách), “ phêy ” (gạo), “ bêh ” (rượu), “ boh ” (muối), “ pai ” (thịt), “ cơninh ” (thuốc), “ ccao ” (hoa), “ dreh ” (xe)… . Cấu tạo của cụm danh từ tiếng Stiêng với những danh từ chỉ sự vật đơn thể được khái quát qua Table 2 .

Table 2 Bảng cụm danh từ trong tiếng Stiêng với danh từ đơn thể
puôn âcbốn picon iêrgà brirừng tikia
picon iêrgà brirừng tikia
picon iêrgà brirừng
picon iêrgà

Danh từ đơn thể “ iêr ” (gà) được đi kèm ngay phía trước là từ chỉ loại “ pi ” (con), “ iêr ” (gà) làm định ngữ cho “ pi ” (con), “ bri ” (rừng) làm định ngữ cho “ iêr ” (gà) còn “ ti ” (kia) là định ngữ hạn định của “ pi ” (con), từ chỉ loại có thể kết hợp trực tiếp với từ chỉ số lượng (số từ) đi kèm ngay trước nó.

  • Danh từ trung tâm là những danh từ tổng thể như: “ bơl ras ” (nhân dân), “ nhi daac ” (nhà nước), “ nhi ba ” (nhà cửa), “ khôw ao ” (quần áo), “ sưmbưt sơnam ” (sách vở), “ ban grêy ” (bàn ghế), “ pưng srêy ” (ruộng vườn), “ gâu cơrpư ” (trâu bò), “ boh ba ” (muối gạo)… hay những danh từ trừu tượng “ baac ” (vấn đề), “ ginh ” (suy nghĩ)…) phần phụ trước danh từ có thể khuyết vài thành tố và khả năng kết hợp với từ chỉ số lượng không nhiều, ví dụ:

lěq liêr nhi ba (toàn bộ nhà cửa )

lěq baac nêy (tất cả vấn đề đó)

Phần phụ trước danh từ trung tâm

Trong tiếng Stiêng, thành phần phụ trước cũng có mô hình cấu tạo và trật tự của các yếu tố trước danh từ trung tâm giống như thành phần phụ trước của cụm danh từ tiếng Việt: từ chỉ tổng lượng – từ chỉ số lượng – từ chỉ loại – danh từ trung tâm, ví dụ:

- lĕq jơ mach âc play blanh (tất cả mười quả cà)

[lĕq (tất cả) jơ mach âc (mười) play (quả/trái) blanh (cà)]

- lĕq prâu âc ky grăp đao (cả sáu ký hạt điều )

[lĕq (cả) prâu âc (sáu) ky (ký) grăp (hạt/hột) đao (điều)]

- baar âc tơơm prῐt (hai cây chuối )

[baar âc (hai) tơơm (cây) prῐt (chuối)]

  • Khi không có từ chỉ số lượng đi kèm ngay trước từ chỉ loại thì nó mang ý nghĩa số đơn hoặc có lượng từ “ di ” (một), ví dụ:

pi iêr ( con gà)

play đung ( trái/quả dừa)

mlâm ao ( cái áo)

grăp đao ( hạt/hột điều)

di tơơm prĭt (một cây chuối)

di plơơp kơđas (một tờ giấy)

di mlâm rdeh pai (một chiếc máy bay)

di mlâm ban (một cái bàn)

  • Khi nói từ hai sự vật trở lên thì “âc/ơc” ở phía sau từ chỉ số lượng (số từ) và cả hai thường đứng sau danh từ trung tâm (khác với tiếng Việt), còn biểu thị hình thức số nhiều dùng “phŭng” (bầy/đàn), “du” dùng cho con người, ví dụ:

- pi cơrpư baar âc ( con trâu hai/ hai con trâu )

[pi (con) cơrpư (trâu) baar âc (hai)]

- pi gâu pêy âc ( con bò ba/ ba con bò )

[pi (con) gau (bò) pêy âc (ba)]

- coon dêch clâu poh du ( nô lệ bảy ông/ bảy ông nô lệ )

[coon dêch (nô lệ) clâu (ông) poh du (bảy)]

- phŭng cơrpư tôw ( đàn trâu kia )

[phŭng (đàn) cơrpư (trâu) tôw (kia)]

  • Các từ chỉ đơn vị đo lường hay ước lượng như “phŭng” (bầy/đàn), “nôông” (bầu), “ông” (lít) … thường theo sau từ chỉ số lượng, còn số từ “muôi” (một) thay cho “di” (một), ví dụ:

di phŭng goong (một bộ kồng)

di phŭng da (một bầy vịt)

baar âc nôông daac (hai bầu nước)

puôn âc ông pring (bốn lít dầu)

  • Các từ chỉ số lượng tổng thể như “lĕq liêr” (toàn bộ), “lĕq” (tất cả/cả), “lěq pal” (tất cả các/những), còn “lěq bơl” (tất cả những/các) dùng trước danh từ chỉ người như “lěq bơl bu” (tất cả những người), ngoài ra còn có phương ngữ “lěq năng lěq/ lěq dưng lěq” (tất cả) dùng trong khẩu ngữ. Các từ chỉ số lượng tổng thể này đứng liền trước các danh từ chỉ người hay danh từ chỉ sự vật đảm nhiệm vai trò xác định số lượng của sự vật, ví dụ:

lěq liêr baac ( toàn bộ vấn đề)

lěq ban grêy ( tất cả bàn ghế)

lěq pi sôr poh âc ( cả con lợn bảy/ cả bảy con lợn)

lěq pal coon riên ( tất cả các học sinh)

lěq bơl dơ-ŭr tôw ( tất cả những cô gái kia)

Ngoài ra, một số trường hợp khi chúng ta muốn người khác chú ý hơn đến sự vật đó hay muốn nói nhấn mạnh vào sự vật đó thì dùng từ chỉ xuất “ mlâm ” (cái) ngay trước từ chỉ loại, buộc phải có từ chỉ định “ nêy/tôw/ti …” (này/đó/đấy/kia…) ở cuối cụm danh từ và nó là định ngữ hạn định của từ chỉ loại “ mlâm ” (cái) hoặc “ pi ” (con) đối với sự vật hiện tượng nhưng con người thì dùng “ ba ” (cái), đặc biệt, trong tiếng Stiêng từ chỉ loại “ pi ” (con) thay thế cho “ pai ” (cái con), ví dụ:

ba bu nêy ( cái thằng đó )

pai iêr baang ti ( cái con gà mái kia )

lěq pal tơơm prĭt tôw (tất cả những cây chuối đó/đấy )

Phần phụ sau danh từ trung tâm

Phần phụ sau của cụm danh từ tiếng Stiêng cũng có mô hình cấu tạo giống như phần phụ sau của cụm danh từ trong tiếng Việt gồm: danh từ trung tâm – định ngữ - từ chỉ định. Về mặt từ loại, các thành tố trong phần phụ sau thường là những từ miêu tả đặc điểm của sự vật được nói đến ở danh từ trung tâm do danh từ, động từ, tính từ, đại từ đảm nhiệm, cụ thể như sau:

ao brai (áo vải)

săh ba (gùi lúa)

daac tanh (nước nóng)

nơhi hêy (nhà tôi)

bươp bu (cha họ)

gôôm bêh (tô rượu)

ao bôôt (áo trắng)

ntuc bêch (chỗ ngủ)

Ngoài ra, trong ngữ cảnh giao tiếp hàng ngày phần phụ sau có thể xác định vị trí của sự vật trong không gian và thời gian bằng những định ngữ hạn định “ âu ” (này), “ tôw ” (đó), “ ti ” (kia)…, ví dụ:

- Bu âu đat gơt chhai. (người này rất thông minh.)

[Bu (người) âu (này) đat (rất) gơt chhai (thông minh).]

- Nơhi tôw lab nhi hêy. (Nhà đó là nhà tôi.)

[Nơhi (Nhà) tôw (đó) lab (là) nhi (nhà) hêy (tôi).]

- Coon troong ti hat. (Con đường kia rất chật/hẹp.)

[Coon (Con) troong (đường) ti (kia) đat (rất) hat (chật/hẹp).]

- Bươp hêy tăm tơơm nêy . (Cha/Bố tôi trồng cây này .)

[Bươp (Cha/Bố) hêy (tôi) tăm (trồng) tơơm (cây) nêy (này).]

Thảo luận và kết luận

Tất cả các trường hợp trên được chúng tôi khảo sát trên ngữ liệu tiếng Stiêng Bu Lơ cho thấy cụm danh từ trong tiếng Stiêng có mô hình cấu tạo chung giống như cụm danh từ trong tiếng Việt gồm: phần phụ trước, phần trung tâm và phần phụ sau. Trong cụm danh từ, các yếu tố trong thành phần phụ trước và thành phần phụ sau có mối quan hệ chặt chẽ, chúng có chức năng làm rõ nghĩa cho danh từ trung tâm mang tính xác định, nghĩa là hiện thực hóa bằng cách làm rõ thêm những đặc điểm, tính chất hoặc số lượng của nó. Các yếu tố trong phần phụ trước danh từ là từ chỉ số lượng, các số từ và tổ hợp chỉ số lượng tổng thể, còn các yếu tố trong thành phần phụ sau có thể là danh từ, động từ, tính từ, đại từ và mỗi loại có một chức năng riêng. Hiện nay, tiếng Stiêng ở Việt Nam có thể nói vẫn chưa có một công trình nghiên cứu cơ bản về ngữ pháp để phục vụ cho chương trình giáo dục song ngữ cho đồng bào Stiêng. Trước tình trạng thực tế như thế, chúng ta làm cách nào để gìn giữ bảo tồn và phát triển vốn văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số Stiêng, trong đó có ngôn ngữ.

Xung đột lợi ích

Tác giả không có bất kỳ xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo.

Đóng góp của tác giả

Thu thập tài liệu, đi điền dã, phỏng vấn và đối chiếu ngữ liệu người bản ngữ tại địa bàn nghiên cứu. Về mặt khoa học của bài nghiên cứu: đây là một phần nghiên cứu của luận án tiến sĩ của tác giả “Câu tiếng Stiêng (có đối chiếu với câu tiếng Việt)”

References

  1. Dõi T T. Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Language of ethnic minorities in Vietnam). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 2016;:. Google Scholar
  2. An P.. Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ giữa thế kỉ XIX đến 1975). NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp.HCM. 2007;:. Google Scholar
  3. Ban D.Q.. Ngữ pháp tiếng Việt, T2. NXB Giáo Dục, Hà Nội. 2015;:. Google Scholar
  4. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Ngữ pháp tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 1983;:. Google Scholar
  5. Liên Đ T K. Ngữ pháp tiếng Việt. NXB Giáo Dục, Hà Nội. 1999;:. Google Scholar
  6. Tư L Đ. Các đơn vị cú pháp tiếng Việt, cụm danh từ. . 2010;:. Google Scholar
  7. Ralph H., ‘Bi Đ.. Nói tiếng Sơđiêng (Stiêng Phrase Book), Sơđiêng – Việt – Anh. Summer Institute of Linguistics. Saigon. 1968;:. Google Scholar


Author's Affiliation
Article Details

Issue: Vol 4 No 1 (2020)
Page No.: 287-292
Published: Mar 31, 2020
Section: Research Article - Social Sciences
DOI: https://doi.org/10.32508/stdjssh.v4i1.541

 Copyright Info

Creative Commons License

Copyright: The Authors. This is an open access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution License CC-BY 4.0., which permits unrestricted use, distribution, and reproduction in any medium, provided the original author and source are credited.

 How to Cite
Thanh Tam, P. (2020). Compare noun phrases in Stieng language and Vietnamese. VNUHCM Journal of Social Sciences and Humanities, 4(1), 287-292. https://doi.org/https://doi.org/10.32508/stdjssh.v4i1.541

 Cited by



Article level Metrics by Paperbuzz/Impactstory
Article level Metrics by Altmetrics

 Article Statistics
HTML = 630 times
Download PDF   = 481 times
View Article   = 0 times
Total   = 481 times